“Sức nặng” của Intrinsic Motivation

Nguyên Cao
December 20, 2023
Theo dõi chúng mình tại:

Động lực có ảnh hưởng lớn đến hành vi của con người. Thông thường, động lực được nói đến như một khái niệm đơn giản nhất, nhưng có những yếu tố khác nhau về động lực, bao gồm cả việc xem xét liệu động lực phát sinh từ bên ngoài (ngoại tại) hay bên trong (nội tại) của một cá nhân, có thể thay đổi đáng kể bản chất của các hành vi và hậu quả của chúng ta. 

Động lực nội tại (Intrinsic Motivation) 

Được tạo ra khi ta tìm thấy ý nghĩa của việc ta làm, do chúng ta thích hoặc coi đó là cơ hội để khám phá, học hỏi.Khái niệm về động lực nội tại được đóng khung trong Lý thuyết Tự quyết được đề xuất và phát triển bởi giáo sư Edward L. Deci và Richard M. Ryan. Theo ông động lực nội tại là "xu hướng cố hữu của con người khi ra ngoài tìm kiếm sự mới lạ và những thách thức để mở rộng và rèn luyện năng lực, khám phá và học hỏi". Nó tập trung vào hành vi đằng sau những lựa chọn của con người mà không bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài. 

Ví dụ về động lực nội tại

  • Tham dự các lớp học tiếng Anh để cải thiện khả năng nói ngôn ngữ.
  • Tập yoga hằng ngày để bản thân khỏe mạnh và dẻo dai.
  • Đi ra ngoài chơi với bạn bè vì niềm vui.

Lợi ích của dộng lực nội tại

Khi bạn theo đuổi một hoạt động vì mục đích thuần túy là tận hưởng nó, mục tiêu hay phần thưởng duy nhất mà các hoạt động thúc đẩy nội tại này mang lại là sự phát triển bên trong của bản thân, khám phá những điều chưa biết, có được những kiến ​​thức mới.

Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là các hành vi được thúc đẩy từ bên trong không đi kèm với phần thưởng của riêng chúng. Những phần thưởng này liên quan đến việc tạo ra những cảm xúc tích cực trong cá nhân.

Động lực ngoại tại (Extrinsic Motivation)

Được tạo ra khi ta muốn có được một phần thưởng bên ngoài (điểm số, tiền bạc, lời khen,..) hoặc né tránh một hình phạt, một kết quả xấu nào đó (bị khiển trách, bị coi thường, vv)

Theo Ryan và Deci (1999) sự kết thúc của các hành vi được thực hiện bởi động lực ngoại tại không còn là sự hài lòng cá nhân hay sự thích thú của chính hoạt động đó, mà là một phần thưởng bên ngoài được mong đợi.

Động lực bên ngoài có thể xảy ra tự chủ hoặc không tự chủ, tùy thuộc vào khả năng lựa chọn của từng cá nhân. Theo nghĩa này, Ryan và Deci đề xuất hai ví dụ để phân biệt được lựa chọn bởi cá nhân hay được đưa ra bởi áp lực bên ngoài. 

Ví dụ:

- Hành động với sự không tự chủ: một học sinh học và làm bài tập về nhà vì sợ phản ứng của người cha đối với kết quả của mình. 

- Hành động với sự tự chủ: một học sinh cố gắng học lên Đại học có uy tín và học thuật cao hơn để đuợc hãnh diện.

Mặc dù hành động là như nhau và cả hai đều là phần thưởng bên ngoài, nhưng trong trường hợp thứ nhất, sự lựa chọn của học viên là do chịu áp lực từ bên ngoài và từ người khác còn trong trường hợp hai, sự lựa chọn là tâm lý cá nhân.

Ví dụ của động lực ngoại tại

  • Tập yoga hằng ngày để được gặp bạn bè, chụp hình đẹp.
  • Học một ngành mà bạn không thích, bởi vì ngành đó giúp bạn chọn được một công việc có điều kiện tốt hơn so với các ngành học thực sự khiến bạn quan tâm.
  • Làm thêm giờ trong công việc để có được phần thưởng kinh tế lớn hơn. 
  • Đi học đúng giờ vì sợ bị ghi tên vào sổ đầu bài.

Lợi ích của động lực ngoại tại

Động lực bên ngoài có thể đặc biệt hữu ích khi một người cần hoàn thành một nhiệm vụ mà họ cảm thấy khó chịu. 

Ngoài ra, phần thưởng bên ngoài có thể gây hứng thú khi tham gia vào một sự kiện mà cá nhân không có hứng thú ban đầu. Động lực ngoại tại còn có thể được sử dụng để thúc đẩy người khác có được kỹ năng hoặc kiến ​​thức mới. 

Phần thưởng bên ngoài cũng có thể là một nguồn thông tin quan trọng, cho phép mọi người biết khi nào họ đạt được mức hiệu suất cần thiết hay đã vượt quá mức trung bình hoặc đã đạt đến mức mong đợi của họ.

Mối quan hệ giữa động lực nội tại và động lực ngoại tại

Mối quan hệ tương khắc

Các nghiên cứu đã chứng minh rằng việc cung cấp phần thưởng bên ngoài quá mức có thể làm giảm động lực nội tại.

Ví dụ: Trẻ em được cho tiền để chơi đồ chơi mà chúng thích, thì sự thích thú của chúng đối với những đồ chơi đó và động lực để tiếp tục chơi thực sự giảm đi.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc động lực nội tại tăng hay giảm do phần thưởng bên ngoài. Sự nổi bật hoặc tầm quan trọng của chính sự kiện cũng đóng một vai trò quan trọng. Cách mà cá nhân nhìn nhận tầm quan trọng khác nhau của sự kiện sẽ ảnh hưởng đến việc liệu phần thưởng có ảnh hưởng đến động lực nội tại của họ khi tham gia vào hoạt động đó hay không.

Ví dụ: một vận động viên thi đấu trong một sự kiện thể thao có thể coi giải thưởng của người chiến thắng là sự xác nhận năng lực. Mặt khác, một số vận động viên có thể xem giải thưởng như một hình thức hối lộ hoặc ép buộc.

Mối quan hệ tương sinh:

Động lực bên trong và bên ngoài không nhất thiết phải luôn luôn tách biệt. Một nghiên cứu năm 1975, được thực hiện bởi Calder và Staw, được công bố trên Tạp chí tính cách và tâm lý xã hội, đã chứng minh rằng động lực bên trong và bên ngoài có thể xảy ra cùng nhau và tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến hành vi của con người. Nó có thể là một phần thưởng mà nhiệm vụ mang lại cho cá nhân và những phần thưởng này đóng vai trò là sự củng cố của hành vi. 

Ví dụ: đi làm có thể khiến bạn cảm thấy vui vẻ, thoải mái với môi trường và công việc, nhưng có một yếu tố bên ngoài khuyến khích bạn tiếp tục làm việc đó là ưu đãi và lương thưởng.

Mặc dù hầu hết các chuyên gia cho rằng nội tại là tốt hơn, nhưng không phải lúc nào cũng có thể. Mặt khác, mặc dù phần thưởng quá mức có thể có vấn đề, nhưng khi được sử dụng đúng cách, chúng có thể là một công cụ hữu ích.

Các nhà nghiên cứu Lepper, Henderlong và Gingras từ Đại học Rochester ở Vương quốc Anh đã có ba kết luận liên quan đến phần thưởng bên ngoài và ảnh hưởng của chúng đối với động lực nội tại:

  • Phần thưởng bên ngoài bất ngờ thường không làm mất đi động lực nội tại.

                 Ví dụ: một học sinh đạt điểm cao vì anh ta thích học và nhận được phần thưởng xứng đáng => động lực học tập của anh ta sẽ không bị ảnh hưởng.

  • Một kết luận thứ hai là khen ngợi có thể tăng động lực nội tại.
  • Động lực nội tại sẽ giảm khi phần thưởng bên ngoài được trao cho việc hoàn thành một nhiệm vụ cụ thể hoặc chỉ làm những công việc tối thiểu 

                Ví dụ: nếu cha mẹ dành nhiều lời khen ngợi cho con mình mỗi khi chúng hoàn thành một nhiệm vụ đơn giản, đứa trẻ sẽ trở nên ít có động lực nội tại hơn để thực hiện nhiệm vụ đó trong tương lai.

Extrinsic Motivation và Intrinsic Motivation trong việc học tiếng Anh

Hiện nay, đã có nhiều nghiên cứu nhằm tìm ra các vấn đề căn nguyên và các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng học, trong nhóm các nhân tố đó không thể không kể đến yếu tố động lực của người học. 

Trong đó, động lực nội tại là động lực xuất phát từ nhu cầu, sự hiểu biết, xác định mục đích của việc học. Đối với những người mang trong mình loại động cơ này luôn nỗ lực ý chí, duy trì hứng thú và ham muốn học hỏi, tìm tòi, vượt qua những trở ngại khó khăn để đạt được những mục tiêu trong học tập, chứng tỏ được khả năng “tự quyết định”, làm phát sinh tinh thần độc lập, đem lại cho người học nhiều sáng kiến.

Còn động lực ngoại tại là động lực tác động lên hoạt động học tập như: đáp ứng mong đợi của cha mẹ, lòng hiếu danh, sự khâm phục của bạn bè, điểm số, bằng cấp… Người học sẽ có xu hướng mang tính cưỡng ép, chống đối (như kết quả học tập không đáp ứng mong muốn của cha mẹ). Vì thế nó gắn liền với sự căng thẳng tâm lý, không đóng góp nhiều cho óc sáng tạo và khả năng giải quyết các trở ngại. Hơn nữa nó đòi hỏi phải đấu tranh với chính bản thân nên dễ vi phạm nội quy, lơ là việc học. 

Việc đầu tiên và quan trọng nhất trong việc học tiếng Anh là xác định động lực học của bản thân. Nó ảnh hưởng đến khả năng một người học bỏ cuộc hoặc tiến lên phía trước, và suy nghĩ của họ về việc học sẽ tốt như thế nào.

Động lực (Intrinsic Motivation) theo đuổi một hoạt động càng sâu sắc, người học càng có nhiều khả năng thúc đẩy sự sáng tạo và nuôi dưỡng khả năng phục hồi, tự đảm bảo, nuôi dưỡng các kỹ năng tư duy phản biện mạnh mẽ, linh hoạt và thử thách bản thân. Còn nếu bạn chỉ chú tâm vào điểm số, tấm bằng hoặc ánh nhìn của người xung quanh (Extrinsic motivation) thì hiển nhiên khi bạn đạt được những “phần thưởng” này thì sẽ không có lý do gì để bạn tiếp tục học và trong quá trình học bạn cũng sẽ cảm thấy áp lực, chán nản.

Cả động lực bên ngoài và bên trong đều đóng một vai trò quan trọng trong học tập. Các chuyên gia đã lập luận rằng sự nhấn mạnh truyền thống của giáo dục vào các phần thưởng bên ngoài (chẳng hạn như điểm số, học bạ) làm suy yếu bất kỳ động lực nội tại nào mà học sinh có thể có. Những các động lực bên ngoài giúp người học cảm thấy có năng lực hơn trong lớp học, nó cũng góp phần vào việc kích thích, tạo hứng thú và nhu cầu cho người học tiếp thu tri thức, kỹ năng trong quá trình học tập, từ đó tăng cường động lực bên trong của họ.

Nhìn chung

Không có động lực nào “cao cấp” hay “vượt trội” hơn động lực nào. Hiểu cách thức hoạt động của từng loại động lực và khi nào nó có thể hữu ích có thể giúp mọi người thực hiện các nhiệm vụ (ngay cả khi không muốn) và cải thiện việc học. Tuy nhiên, nếu bạn đã có ý định nghiêm túc với việc học tiếng Anh, thì Enghance khuyến khích bạn tìm cho mình một Intrinsic Motivation. 

Reference
  1. Benabou, R., & Tirole, J. (2003). Động lực nội tại và ngoại sinh. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 70(3), 489-520. doi: 10.111 / 1467-937x.00253.
  2. Calder, B. J., & Staw, B. M. (1975). Tự nhận thức về động lực bên trong và bên ngoài. Tạp chí tính cách và tâm lý xã hội, 31(4), 599-605. doi: 10.1037 / h0077100.
  3. Oudeyer, P., Kaplan, F., & Hafner, V.V. (2007). Hệ thống tạo động lực nội tại để phát triển tinh thần tự chủ. Giao dịch của IEEE về tính toán tiến hóa, 11(2), 265-286. doi: 10.1109 / tevc.2006.890271.
  4. Ryan, R. M., & Deci, E. L. (2000). Lý thuyết tự quyết và tạo điều kiện thúc đẩy nội tại, phát triển xã hội và hạnh phúc. Nhà tâm lý học người Mỹ, 55(1), 68-78. doi: 10.1037 // 0003-066x.55.1.68.
  5. Ryan, R. M., & Deci, E. L. (2000). Động lực bên trong và bên ngoài: Định nghĩa cổ điển và hướng đi mới. Tâm lý giáo dục đương đại, 25(1), 54-67. doi: 10.1006 / ceps.1999.1020.
  6. Sansone, C., & Harackiewicz, J. M. (2007). Động lực bên trong và bên ngoài: tìm kiếm động lực và hiệu suất tối ưu. San Diego: Báo chí học thuật.

Đăng ký để mở khóa premium content

Những bài viết cung cấp kiến thức chuyên sâu, giúp bạn vững vàng hơn và đạt được kết quả tốt

Coming soon
No items found.
Coming soon
No items found.
Coming soon
No items found.